Lương y Lê Văn Chánh sinh năm 1927, tại Bến Tre, là con của một thầy thuốc người công giáo rất có lòng ái quốc. Ông tham gia kháng chiến (năm 1945) bằng chính công việc chuyên môn của mình là dùng nghề y để vừa chữa bệnh cho dân nghèo, vừa dễ vận động quần chúng, năm đó ông là Phó Ban y tế xã.
Thời gian này ông được đào tạo thêm về Tây y. Năm 1954, ông được điều về công tác ở tỉnh ủy Bến Tre. Năm 1960, ông bị địch bắt và bị tù đày ra Côn Đảo. Do ông là một thầy thuốc nên được phân công phụ trách “tù y” cùng với một nhóm bạn tù, làm công việc chăm sóc y tế cho những người tù (hai chữ tù y là do ông tự nghĩ ra để nói về công việc hàng ngày của mình).
Chính trong thời gian này, lương y Chánh đã khởi đầu cho việc nghiên cứu chuyên về điều trị bệnh trĩ, từ thực tế chữa trị cho anh em tù. Ông đặc biệt chú ý đến những ca bệnh trĩ vì theo ông, căn bệnh này tuy đơn giản nhưng lại làm cho người bệnh đau đớn nhiều, đi đứng khó khăn, khổ nhất là vẫn phải lao động khổ sai.
Ông và anh em tù y bắt tay nghiên cứu, gạn lọc nhiều phương pháp khác nhau để áp dụng điều trị trĩ, cuối cùng, cách điều trị tiêm dung dịch Glycerine Phéniquée cho hiệu quả rõ rệt và dễ thực hiện nhất (ông đặt tên cho dung dịch này là PG60). Đây là phương pháp kết hợp y học cổ truyền của Đông y và Tây y, được ngành y tế trên Côn Đảo ngày ấy công nhận và hỗ trợ nguyên liệu để điều chế thuốc. Và bài thuốc này đã tồn tại suốt cả đời ông như một định mệnh. (Trích “Người đương thời” (tập 1), NXB Lao Động).
Lương y Lê Văn Chánh từng đảm nhiệm chức vụ Phó chủ tịch Hội Hậu môn Trực tràng học Việt Nam. Cảm nhận của mọi người về ông là một lương y yêu nghề, tận tụy và hết lòng phục vụ cho sự nghiệp chăm lo sức khỏe người dân.
Lương y Lê Văn Chánh đã chuyển giao phương pháp điều trị bệnh trĩ bằng thủ thuật tiêm PG60 cho Viện Y dược học dân tộc TPHCM kế thừa và phát triển hơn 40 năm. Ông cũng hướng dẫn và đào tạo nhiều bác sĩ các tỉnh thành theo học phương pháp điều trị bệnh trĩ.
Trong 17 năm gắn bó với Hội, Lương y Lê Văn Chánh tích cực trong công tác tham mưu, đóng góp nhiều ý kiến, tham gia xây dựng hội vững mạnh. Ông cũng có nhiều bài báo cáo, tư liệu quý giá đăng trên các tạp chí chuyên ngành, tạp chí công giáo, báo chí.
Khen thưởng:
– Huân – huy chương kháng chiến
– Kỷ niệm chương chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày 1998 của Thủ tướng chính phủ
– Kỷ niệm chương Vì sức khỏe nhân dân của Bộ Y tế (2005)
– Bằng khen đã có những đóng góp hiệu quả trong quá trình xây dựng và phát triển lĩnh vực y học cổ truyền của Bộ Y tế (2006)
– Bằng khen của Hội Hậu môn Trực tràng học Việt Nam (2010)
– Giấy chứng nhận người có bài thuốc chữa bệnh đạt hiệu quả cao của Trung ương hội Đông y (2006)
– Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp Đông y của Trung ương hội Đông y (2009)
– Hơn 30 giấy khen, bằng khen của Sở Y tế TPHCM, Hội Đông y TPHCM và Viện Y dược học dân tộc TPHCM…
AloBacsiGioi.vn (tổng hợp)